Thứ Năm, 26 tháng 3, 2015

[Ký sự] Những tháng ngày còn mãi (phần 3)

Những tháng ngày còn mãi (3)Cập nhật: Thứ năm, 26/3/2015 - 7h57'

Bài cuối: Tiếp quản các trụ sở bằng xe… đại tá ngụy
(Cadn.com.vn) - Ông Nguyễn Hạnh Kiểm nhanh chóng dẫn ông Vũ Đình Cảnh đến ngay nhà anh Hà Nam, một cơ sở trên đường Thống Nhất. Theo sự chỉ dẫn của cơ sở Hà Nam, họ trưng dụng chiếc xe jeep của một đại tá ngụy ở gần đó đã chạy thoát thân vài hôm trước và giao cho anh Nam trực tiếp lái xe đi làm nhiệm vụ. Chiếc xe jeep tức tốc ập tới trụ sở Tổng lãnh sự Mỹ. Đến nơi, thấy cổng mở, bàn ghế vứt bừa bãi nhưng giấy tờ, tài liệu không có một mảnh, cái lò thiêu tài liệu trong góc phòng vẫn còn nóng hổi. Té ra trước khi rút chạy, chúng đã sử dụng chiếc lò này để hủy tài liệu. Xe tiếp tục chạy sang Trại huấn luyện biệt kích ở Sơn Trà, thu được một số tài liệu quan trọng. Tại đây, các trang thiết bị, vũ khí của biệt kích vẫn còn nguyên.
Hai ông khóa cổng Trại cẩn thận rồi dán niêm phong của Ủy ban Quân quản (UBQQ). Nhìn ra phía biển, lúc này có 3 chiếc tàu lớn, quân lính chen chúc, xô đẩy nhau lên tàu. Thỉnh thoảng lại có tiếng súng ì ầm từ xa vọng lại. Chiếc xe jeep quay về trung tâm thành phố thì cờ của quân giải phóng miền Nam đã phất phới tung bay trên Tòa thị chính. Ông Kiểm bảo anh Nam cho xe tới Nha Cảnh sát Trung phần. Vào các phòng, thấy nhiều loại tài liệu vẫn còn nguyên trên bàn, kho vũ khí vẫn khóa, hai người thu được một số tài liệu, phân công lực lượng tự vệ đường phố canh giữ kho vũ khí, các trang thiết bị quân sự.
Nhận được tin bộ phận tiền phương của BANĐKQĐ do ông  Hoàng Văn Lai chỉ huy đã chiếm lĩnh được Ty Cảnh sát Đà Nẵng ngụy trên đường Gia Long, ông Kiểm, ông Cảnh  đến báo cáo một số tình hình với ông Lai. Ông bảo: "Lực lượng ta đang có mặt trong thành phố. Một vài đơn vị đã chiếm giữ được sân bay Đà Nẵng, Tòa thị chính, Đài Phát thanh, Nhà máy điện, Nhà máy nước. 7 giờ tối nay chúng ta tập trung tại đây để bàn kế hoạch tiếp theo".  Tối đến, tại Ty Cảnh sát Đà Nẵng, ông  Lai nghe các cánh quân của BANĐKQĐ và tổ công tác của ông Cảnh, ông Kiểm báo cáo tình hình trong ngày và triển khai nhiệm vụ. Ông nói: "Một số cây cầu trên quốc lộ 1 đã bị địch phá làm hư hỏng trước khi rút chạy, bộ  đội chủ lực đang bắc cầu phao để tăng cường quân vào.
Theo tài liệu của chúng ta, hiện nay, toàn thành phố có khoảng hơn 10 vạn tên địch, chúng ta cần phải biết chúng đang ở đâu, đặc biệt là những đối tượng nguy hiểm để kêu gọi trình diện và truy bắt. Sáng mai tôi sẽ báo cáo Chủ tịch UBQQ Đà Nẵng bắt đầu làm thủ tục cho trình diện vào ngày 31-3". Sau một lát suy nghĩ, ông Lai nói: "Anh em BANĐKQĐ lâu nay đánh địch, diệt ác, phá kiềm, chưa có kinh nghiệm làm các thủ tục trình diện. Mấy anh của Bộ tăng cường có ý kiến gì hay về việc này không?".
Từng tham gia lập hồ sơ việc đăng ký trình diện khi tiếp quản Hải Phòng, là cán bộ CA tỉnh Thanh Hóa chi viện cho BANĐKQĐ cũng từng làm công tác đăng ký trình diện tại CATP Hà Nội khi giải phóng thủ đô nên ông Cảnh và ông Vọng phát biểu đề xuất một số công việc phải khẩn trương triển khai. Được ông Hồ Nghinh, Ủy viên Ban Thường vụ Khu ủy 5, Chủ tịch UBQQ nhất trí, một số việc được giao cho các ngành như soạn lời tuyên truyền, kêu gọi binh lính nộp vũ khí, trình diện được giao cho Ban Tuyên huấn tỉnh, mẫu mã, nội dung khai báo, giấy chứng nhận trình diện... do ông Cảnh và ông Vọng soạn thảo rồi cho in ấn ngay. Cấp tỉnh chịu trách nhiệm đăng ký trình diện số sĩ quan từ đại úy trở lên, các đối tượng cầm đầu đảng phái phản động, số còn lại giao cho UBQQ cấp quận và cho xe đi các ngả đường kêu gọi đăng ký trình diện.
Cờ giải phóng tung bay trên Tòa thị chính Đà Nẵng ngày 29-3-1975. Ảnh: T.L
Sáng 3-4, rất đông người đến trước trụ sở Tòa án trên đường Bạch Đằng, địa điểm đăng ký trình diện của UBQQ cấp tỉnh nhưng rất lâu vẫn không thấy ai vào bàn đăng ký vì họ sợ bị cách mạng bắt. Gần trưa mới thấy một người trông vẻ trí thức, mặc veston, đội mũ phớt bước vào bỏ mũ chào ông Cảnh. Sau khi ngồi, ông ta chìa tấm thẻ với chức danh Thị phó Hội An. Ông Cảnh làm thủ tục đăng ký và cấp giấy đã trình diện cho ông ta và bảo cứ yên tâm về nhà. Ông ta ngạc nhiên hỏi lại: "Thưa ông, tôi được tự do?". "Đúng vậy, ông cứ về tiếp tục khai báo những phần đã yêu cầu trong mẫu này"-ông Cảnh chỉ tay vào tờ giấy vừa đưa cho ông ta và nói. Nét mặt ông ta lộ rõ vẻ hớn hở, vui mừng. Thấy ông ta bình thản bước ra, 2 người khác từ ngoài bước vào, đưa ra 2 giấy chứng minh mang quân hàm trung tá thuộc Quân đoàn I ngụy.
Sau khi lập danh sách trích ngang, ông Cảnh  cấp giấy chứng nhận để họ ra về tiếp tục khai báo một số chi tiết theo yêu cầu. Thấy sĩ quan cấp tá cỡ bự ra trình diện rồi về lại gia đình, buổi chiều nhiều người chen nhau vào trình diện sớm, trong đó có người đưa giấy tờ để chứng minh mình là thủ quỹ kho bạc Đà Nẵng rồi đưa cho ông Cảnh chùm chìa khóa và nói rằng kho bạc hiện còn nguyên vẹn. Anh ta còn đưa cho ông Cảnh một số mẫu tiền ngụy quyền Sài Gòn giả để tiện việc phân biệt. Lát sau, một thiếu tá bảo quản kho tài liệu của cơ quan tình báo "Biệt đội sưu tầm" vào trình diện. Ông Cảnh khấp khởi mừng thầm, bởi đó là những tài liệu rất cần thiết mà lực lượng an ninh chưa thu giữ được. "Kho tài liệu ở đâu, còn không?"-ông Cảnh hỏi, giọng gấp gáp. "Dạ, thưa ông, còn nguyên, tôi vừa ở đó tới đây"-anh ta trả lời. Thế là ông Cảnh cùng ông Kiểm lên xe đến ngay kho tài liệu trên đường Nguyễn Du thì thấy một đơn vị bộ đội thông tin đang tiếp quản. Hai ông xuất trình giấy tờ với chỉ huy đơn vị và đề nghị đơn vị chuyển toàn bộ tài liệu vào một phòng lớn rồi niêm phong, giao cho quân đội bảo vệ...
Ngày 3-4, Đoàn binh vận, Bộ Quốc phòng đến yêu cầu tiếp nhận công tác đăng ký trình diện. Ông Hoàng Văn Lai đồng ý giao cho quân đội và chỉ đạo lực lượng an ninh tiếp tục nắm thông tin các tình báo, gián điệp, cảnh sát, nhân viên ngụy quyền để có kế hoạch xử lý phù hợp. Ngày 4-4, một đoàn cán bộ mang giấy giới thiệu của Ngân hàng Trung ương do người lính thủ kho kho bạc hôm nọ dẫn đến. Đoàn đề nghị ông Cảnh giao chùm chìa khóa các két sắt để Ngân hàng quản lý.
Ngày 5-4, thấy số binh lính trình diện thưa dần và dứt hẳn, ông Hoàng Văn Lai ra lệnh cho lực lượng an ninh tiến hành truy bắt các đối tượng ngoan cố, không chịu trình diện và qua đó một số đối tượng đã bị bắt, khám xét, thu giữ được nhiều tài liệu quan trọng. Được cơ sở phát hiện có một Tổng trưởng Tài chính (Bộ trưởng) của chính quyền Sài Gòn ra Đà Nẵng bị kẹt lại, đang ở trong nhà người thân, không chịu khai báo, ông Cảnh và ông  Kiểm tức tốc đến nơi. Khi thấy lực lượng an ninh, ông ta nhận ngay mình là Tổng trưởng. Ông Cảnh hỏi: "Ông thấy cộng sản ra sao?". "Tôi cứ tưởng cộng sản thế này, thế kia, ai ngờ các ông rất hiền và tốt quá, không phải như tôi và nhiều binh lính Việt Nam cộng hòa lầm tưởng".
Tổ công tác đưa ông ta về một địa điểm bí mật, giải thích sự khoan hồng của cách mạng, đồng thời đề xuất với cấp trên cho ông ta về lại Sài Gòn để tuyên truyền rằng không có sự tắm máu, thanh trừng của cộng sản ở các vùng vừa được giải phóng như địch từng lừa phỉnh. Được sự chỉ đạo của BANK5, tổ điệp báo liền cử người đưa ông ta vào Nha Trang, bàn giao cho tổ công tác của ông Hoàng Lượng để tiếp tục cho vào Sài Gòn. Ngày 9-4, Bộ CA điều động 250 CBCS của CATP Hải Phòng, CA tỉnh Thanh Hóa cho BANĐKQĐ bằng đường thủy và tất cả số này được Trưởng ban Hoàng Văn Lai bố trí ngay cho các đơn vị nghiệp vụ của Ban và an ninh các quận để tiếp tục giữ vững ANTT Đà Nẵng.

Thái Mỹ

Nguồn: http://cadn.com.vn/news/65_129411_nhu-ng-tha-ng-nga-y-co-n-ma-i-3-.aspx

Thứ Tư, 25 tháng 3, 2015

[Ký sự] Những tháng ngày còn mãi (phần 2)

Những tháng ngày còn mãi (2)Cập nhật: Thứ tư, 25/3/2015 - 7h0'

* Bài 2: Mấy anh giải phóng cũng giống mình thôi!
(Cadn.com.vn) - Ông Hoàng Văn Lai  được Ban Thường vụ cử ra cánh bắc Hòa Vang phổ biến nghị quyết của Tỉnh ủy và kiểm tra công tác an ninh. Trước khi đi, ông đề nghị với lãnh đạo BANK5 cho tổ điệp báo của ông Vũ Đình Cảnh, Nguyễn Hạnh Kiểm đi cùng để họ giúp lực lượng an ninh huyện và cơ sở về nghiệp vụ. Ông Hoàng Văn Lai đưa cho ông Vũ Đình Cảnh một tập giấy trắng, có đóng dấu “Ủy ban mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Quảng Đà” rồi nói: “Anh xuống đó cố gắng kết hợp với an ninh huyện chọn những đối tượng chủ chốt rồi dùng những tờ giấy này viết thư kêu gọi, tức là tấn công chính trị”. Sau vài ngày hướng dẫn công tác nghiệp vụ an ninh, ông Vũ Đình Cảnh lần lượt viết các bức thư theo yêu cầu của cơ sở, của các trinh sát an ninh huyện, xã gửi cho một số sĩ quan, binh lính, ngụy quyền, kêu gọi chúng chấm dứt gây tội ác, buông súng quay về với nhân dân, với cách mạng sẽ được khoan hồng, những ai ngoan cố sẽ bị trừng trị. Có những bức thư được chuyển tới một số nhà tư sản có cảm tình với cách mạng kêu gọi họ ủng hộ vật chất và họ thông qua cơ sở chuyển tiền đóng góp vào “Quỹ chống Mỹ cứu nước” ở địa phương.
Mặc dù Hiệp định Paris đã được ký kết ngày 27-1-1973, song địch tăng cường lực lượng chống phá. Chúng ra sức càn quét, bắn phá, bắt bớ, tra tấn bất cứ người dân nào chúng nghi ngờ là cộng sản. Ở thành phố cũng như các vùng địch tạm chiếm, chúng ép buộc nhân dân hoặc cho quân lính vẽ cờ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu lên khắp tường nhà, cổng ngõ với ý đồ rằng: “Sau Hiệp định sẽ có Ủy ban giám sát quốc tế kiểm tra sẽ thấy nhiều vùng lãnh thổ đang bị Việt Nam cộng hòa kiểm soát, cộng sản bị đẩy lên núi thì làm sao có dân, có đất”. Nắm được chiến lược của địch, cả hệ thống chính trị cách mạng dồn lực lượng xuống cơ sở cắm cờ, giữ đất. Hằng ngày đạn bom liên tục cày xới khắp làng mạc, xóm thôn, lực lượng cách mạng và không ít chiến sĩ BANĐKQĐ hy sinh.
Đoàn quân giải phóng tiến vào Đà Nẵng ngày 29-3-1975. Ảnh: T.L
Trước yêu cầu thực tiễn tình hình, Bộ CA tăng cường cho tổ điệp báo Đà Nẵng một số cán bộ, trong đó có ông Nguyễn Trọng Hồi, Phó phòng Chấp pháp CATP Hải Phòng. Nhận được tin báo của BANĐKQĐ vừa bắt giữ được 6 tên biệt kích xâm nhập vào một số căn cứ ở vùng B Đại Lộc để thăm dò tin tức, BANK5 liền cử ông Nguyễn Hạnh Kiểm và ông Nguyễn Trọng Hồi lên ngay Trại giam Quảng Đà đấu tranh, khai thác. Tại đây, ông Hoàng Văn Đan, Phó khu CA Hồng Bàng, Hải Phòng chi viện cho BANĐKQĐ đang làm Giám thị. Qua đấu tranh, được biết toán biệt kích này được đào tạo tại Trung tâm huấn luyện Sơn Trà, sau đó dùng máy bay trực thăng thả vào một số bìa rừng để lấn sâu vào căn cứ địa cách mạng và một số tên khác được chúng tung ra miền Bắc. Cũng tại trại giam, ông Kiểm, ông Hồi còn tiếp tục khai thác 1 đại úy, Chi khu trưởng Thượng Đức, một số sĩ quan an ninh quân đội, biệt đội sưu tầm... bị bắt giữ, do đó thu thập được nhiều thông tin về mạng lưới tình báo, gián điệp, cảnh sát của địch.
Nhân dân Đà Nẵng vui mừng chào đón quân giải phóng ngày 29-3-1975.
Sau khi tấn công giải phóng Buôn Ma Thuột, thủ phủ của địch ở Tây Nguyên, ngày 15-3-1975, ông Vũ Đình Cảnh được lãnh đạo BANK5 nhận mệnh lệnh mới. Hơn một ngày đường vất vả ông Cảnh mới về tới căn cứ Ban và được quán triệt Nghị quyết của Thường vụ Khu ủy Khu 5 quyết tâm giải phóng Đà Nẵng và giao một số nhiệm vụ trọng tâm cho tổ điệp báo. Ngày 16-3, trên đường trở về, ông Cảnh gặp đoàn công tác của ông Hoàng Văn Lai, hỏi: “Ban gọi anh về có việc chi rứa?”- “Nhận lệnh chuẩn bị tấn công giải phóng Đà Nẵng anh à. Anh chưa biết hả?”-ông Cảnh trả lời và hỏi lại với ánh mắt đầy ngạc nhiên. “Có chứ. Mình mới nhận được điện của lãnh đạo BANK5 đây thôi”- ông Lai trả lời. Các ông Vũ Đình Cảnh, Nguyễn Hạnh Kiểm nhanh chóng củng cố một số tài liệu về tình hình địch, lập danh sách các trụ sở quan trọng của địch, nhất là các trụ sở của hệ cảnh sát đặc biệt, các tổ chức tình báo, gián điệp, biệt đội sưu tầm Vùng 1 chiến thuật đóng tại Đà Nẵng, địa chỉ nhà riêng của những tên ác ôn, những đối tượng nguy hiểm... để chuẩn bị phục vụ chiến dịch. Ngày 17-3, tổ điệp báo chia làm 2 mũi bí mật áp sát vùng ven thành phố để tiếp nhận thông tin từ nội thành báo ra. Nhiều cơ sở cho biết lúc này tình hình nội bộ địch ở phía bên trong rất hoang mang, bấn loạn, có một số binh sĩ đã đào ngũ, xe của lực lượng quân cảnh, cảnh sát hụ còi inh ỏi khắp đường phố truy lùng, tìm kiếm số binh lính bỏ trốn. Ngày 24-3, quân giải phóng tấn công chiếm lĩnh thủ phủ thị xã Tam Kỳ và tuyến đường Quốc lộ 1A bị cắt đứt, cô lập hoàn toàn thì bọn binh lính tại Đà Nẵng càng náo loạn. Ngày 26-3 bị tấn công dồn dập ở Huế, số tàn quân bại trận tại Huế chạy dồn về Đà Nẵng bằng nhiều loại phương tiện giao thông. Lúc này, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Vùng I Chiến thuật kêu gào binh lính phải tử thủ Đà Nẵng đến cùng nhưng rạng sáng ngày 28-3, khi pháo của quân giải phóng nã liên hồi vào sân bay Đà Nẵng thì tướng Ngô Quang Trưởng cũng nhanh chóng xuống cảng nhảy lên tàu chuồn vào Sài Gòn, bỏ mặc đám tàn quân bệ rạc.
Mờ sáng ngày 29-3-1975, ông Vũ Đình Cảnh và ông Nguyễn Hạnh Kiểm hội ý nhanh và tiến vào thành phố. Lúc này có nhiều cánh quân của bộ đội và lực lượng BANĐKQĐ cũng ồ ạt tiến vào với nhiều mũi. Ông Kiểm hỏi ông Cảnh: “Chúng ta mặc trang phục thế nào khi vào thành phố?”- “Nếu mặc quần áo bình thường thì dễ bị dân và quân địch nhầm, không có lợi, đôi khi nguy hiểm nữa. Mình nên mặc quần áo quân giải phóng”-ông Cảnh trả lời. Thế là họ thay quần áo, đội mũ tai bèo, đeo thắt lưng súng ngắn K59 ra Quốc lộ 1 đón xe đò vào Đà Nẵng. Trên đường vào thành phố, từng đoàn binh lính cởi trần, không giày, không mũ, chỉ vỏn vẹn chiếc quần đùi dính trên người chạy về hướng ngược lại. Xe đến chợ Cồn, dân xúm lại “coi mấy ông cộng sản”. Ngay lúc đó có một phụ nữ nhận ra ông Kiểm, tiến sát đến chào hỏi và người phụ nữ ấy chính là cơ sở của ông được cài cắm trong nội thành. Thấy ông Kiểm nói chuyện thân mật với người phụ nữ, nhiều người xúm tới gần hơn, họ nhìn từ đầu đến chân “hai ông giải phóng”. Bỗng có tiếng ai đó trong đám đông: “Mấy anh giải phóng cũng giống như mình thôi chớ có khác chi mô. Họ như ri mà nói 7 người cộng sản ngồi trên cọng đu đủ không gãy, thật là sự bịp bợm, lừa dối”.

Thái Mỹ
(còn nữa)

Thứ Ba, 24 tháng 3, 2015

[Ký sự] Những tháng ngày còn mãi

Những tháng ngày còn mãi
Cập nhật: Thứ ba, 24/3/2015 - 7h30'
Bài 1: Tiền tuyến gọi, hậu phương đáp lời
(Cadn.com.vn) - Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lực lượng an ninh Đặc khu Quảng Đà đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, lập được nhiều chiến công vang dội, góp phần làm ngời sáng các trang sử hào hùng của lực lượng CAND. Những tên đất, tên làng, những triền sông, bờ suối của xứ Quảng đều in đậm những bước chân của người chiến sĩ an ninh thời đạn bom khốc liệt. Và ở những nơi ấy cũng có không ít máu xương của những người chiến sĩ an ninh thấm sâu vào lòng đất để hóa thành khúc tráng ca bất tử, trong đó có cả những người con ưu tú từ quê hương sông Mã và TP hoa phượng đỏ chi viện cho mặt trận Quảng Đà. 
Để tăng cường lực lượng cho chiến trường Khu 5, tháng 9-1967, Bộ CA  quyết định điều động gần 100 CBCS thuộc CATP Hải Phòng chuẩn bị lên đường. Họ được tập trung ở Văn Môn, Thái Bình để quán triệt tình hình, nhiệm vụ mới chỉ vỏn vẹn có vài ngày rồi đi ngay, không kịp chia tay người thân, gia đình. Đoàn được ưu tiên ngồi chung với xe tải "Zin 3 cầu" chở gạo vào chiến trường. Đoàn xe vào tới địa phận Hà Tĩnh bị máy bay địch đánh phá dữ dội, nhiều cánh rừng Trường Sơn cháy trụi. Để đảm bảo an toàn, cấp trên cho xe chở lương thực đi trước, đoàn CBCS bắt đầu đi bộ trèo đèo, lội suối.
Sau gần 80 ngày vượt núi, xuyên rừng, họ đến căn cứ Ban An ninh Khu 5 (BANK5) đóng tại Thạnh Mỹ, H. Giằng, Quảng Nam. Ông Nguyễn Sanh Châu, Trưởng BANK5 tiếp nhận đoàn và ông Vũ Đình Cảnh, một cán bộ trong đoàn chi viện nhận ra ngay người lãnh đạo Ban, bởi trước đó ông Châu là Phó cục trưởng Cục Phản gián, Bộ CA được đưa vào làm Trưởng ban. Ông Châu bảo: "Hiện nay  Khu 5 ác liệt lắm. Anh em ở Ban mới từ chiến trường Quảng Đà về đây. Để phục vụ cho cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, BANK5 đã dồn lực lượng quyết tâm chiếm lĩnh Đà Nẵng, song bị lộ, địch phản công dữ dội, nhiều đồng chí hy sinh, cơ sở của an ninh trong nội thành bị phá vỡ không ít.
Khi rút về đây, không có gạo, anh em phải ăn sắn, rau rừng thay cơm, không có muối nhiều ngày". Dứt lời, ông Châu đưa tay áo gạt nước mắt làm cho CBCS trong đoàn ai cũng rưng rưng theo. Ngày hôm sau, đoàn được lệnh di chuyển về xã Nước Tông, H. Trà My để tăng gia sản xuất. Do ăn khoai sắn liên miên, sức khỏe của CBCS giảm sút trầm trọng, nhiều người ngã bệnh nên ông Châu cử trinh sát Vũ Đình Hòe, một chiến sĩ cũng từ CATP Hải Phòng vào trước phụ trách tổ công tác xuống đồng bằng tìm gạo.
Hơn 2 ngày luồn rừng, tổ lo liệu hậu cần cũng tiếp cận được một số cơ sở của Ban ở xã Trà Lãnh, H. Trà Bồng, Quảng Ngãi để nhận gạo do bà con nơi đây đóng góp, song con đường tiếp tế này cũng chẳng được bao lâu, vì địch phát hiện, liên tục đánh phá. Ban đêm, chúng thường dùng máy bay thả quả sáng, nã pháo cầm canh. Có lúc trực thăng địch đổ các toán biệt kích đánh chặn đường. Việc lấy gạo hết sức khó khăn và nguy hiểm, lãnh đạo Ban yêu cầu tỉa bắp, trồng khoai, mặt khác cử người đánh bắt cá ở suối, săn thú rừng để lấy sức chiến đấu lâu dài.
Đại tá Nguyễn Hạnh Kiểm (áo trắng) trong dịp cùng lãnh đạo Bộ CA thăm hỏi Mẹ VNAH tại TP Đà Nẵng.
Một thời gian sau, đoàn CBCS CATP Hải phòng tăng cường được lãnh đạo BANK5 lần lượt đưa về các địa phương, quân số chủ yếu bổ sung cho Ban An ninh Đặc khu Quảng Đà (BANĐKQĐ). Ông Nguyễn Văn Sửu, quê ở Phú Yên, nguyên Phó phòng Bảo vệ Chính trị CATP Hải Phòng giữ chức Phó ban An ninh tỉnh Phú Yên. Trên đường đi nhận nhiệm vụ mới thì bị địch phục kích, ông hy sinh. Bọn địch lấy ba lô, hành lý của ông đưa về TX Quảng Ngãi trưng bày, rêu rao "quân lực Việt Nam cộng hòa đã tiêu diệt được tên Việt cộng cỡ bự từ miền Bắc mới xâm nhập vào".
Các ông Hoàng Lượng, Nguyễn Đăng Vự, Nguyễn Văn Thanh, Vũ Đình Cảnh được lãnh đạo Ban điều về Phòng Điệp báo và công tác an ninh vùng địch (B3) và thành lập 3 tổ điệp báo. Ông Hoàng Lượng phụ trách tổ ở Nha Trang, thủ phủ Quân đoàn 2 ngụy, ông Nguyễn Đăng Vự, phụ trách tổ ở Quảng Ngãi, ông Vũ Đình Cảnh phụ trách tổ ở Đà Nẵng, thủ phủ của Quân đoàn I ngụy. Riêng tổ của ông Vũ Đình Cảnh được BANK5 bổ sung thêm ông Nguyễn Hạnh Kiểm (nguyên Giám đốc CA tỉnh QN-ĐN) và ông Nguyễn Hòa từ BANĐKQĐ sang.
Sau khi nhận nhiệm vụ từ người trưởng BANK5 và Trưởng phòng B3 Lê Lực, ông Nguyễn Hạnh Kiểm chọn địa bàn đứng chân ban đầu tại xã Phú Diên, H. Quế Sơn, bởi đây là vùng tranh chấp, có phong trào cách mạng khá mạnh, được nhân dân đùm bọc, chở che, có điều kiện thuận lợi cho công tác điệp báo nên lãnh đạo Ban đồng ý ngay. Ngày hôm sau, tổ điệp báo ông Vũ Đình Cảnh gấp rút xuống địa bàn, trên đường đi họ tranh thủ ghé lại nơi đứng chân của BANĐKQĐ gặp ông Hoàng Văn Lai, Trưởng ban để báo cáo một số tình hình, đồng thời đề nghị ông chỉ đạo lực lượng điệp báo của BANĐKQĐ và an ninh các quận, huyện để phối hợp.
Biết ông Vũ Đình Cảnh là người Hải Phòng chi viện, ông Hoàng Văn Lai hỏi, giọng ngậm ngùi: "Đồng chí ở CATP Hải Phòng, có biết đồng chí Phạm Văn Chữ cũng ở ngoài nớ được tăng cường cho Quảng Đà từ năm 1965 không?"- "Dạ thưa anh! Biết chứ. Anh Chữ hồi đó là Phó phòng Tổ chức cán bộ CATP Hải Phòng"- ông Cảnh trả lời. "Anh Chữ hy sinh rồi, mộ ảnh chôn ở gần đây thôi"-giọng ông Lai chùng xuống nghẹn ngào! Ông Hoàng Văn Lai liền cử người dẫn ông Cảnh đi thăm mộ ông Chữ nhưng khi đến nơi chỉ còn cái hố nho nhỏ vì lũ lụt đã cào cuốn hài cốt  ông đi mất. Chia tay ông Lai, các ông Vũ Đình Cảnh, Nguyễn Hạnh Kiểm và Nguyễn Hòa xuống xã Phú Diên. Đây là xã nằm sát Quốc lộ 1A, rất tiện liên lạc với cơ sở trong thành phố, lại có rất nhiều đồi núi, lau lách um tùm, dễ dàng che mắt địch.
Đến nơi, tổ điệp báo chọn địa điểm dựng lán, đào hầm bí mật, hầm tránh pháo để đồn địch ở gần đó cũng như máy bay trinh sát không phát hiện, đồng thời từng bước liên lạc với các cơ sở để tiếp nhận thức ăn. Do có nhiều cơ sở từ lúc còn ở BANĐKQĐ nên ông Nguyễn Hạnh Kiểm đã nhanh chóng xây dựng được nhiều cơ sở nên từ đó tổ điệp báo rất thuận lợi cho việc phát triển rộng hơn mạng lưới, đặc biệt là công tác tuyển chọn cơ sở hoạt động hợp pháp để ra vào dễ dàng trong nội thành. Mặt khác, đích thân các ông Nguyễn Hạnh Kiểm, Nguyễn Hòa hóa trang nhiều vai để luồn sâu trong lòng địch, triển khai các biện pháp cài cắm cơ sở, đồng thời tuyên truyền, thuyết phục một số người tốt làm giao liên, đặc biệt mẹ ông Nguyễn Hạnh Kiểm ở xã Điện Hòa, H. Điện Bàn đã mưu trí, dũng cảm vượt qua hàng rào lưỡi lê, họng súng của kẻ địch căng dày ngày đêm tiếp tế lương thực, thực phẩm cho tổ điệp báo.
Do có tin từ mật báo viên, một ngày thượng tuần tháng 7-1972, địch triển khai lực lượng với nhiều sắc lính tập kích vào địa bàn hoạt động của tổ điệp báo. Tổ công tác vừa chiến đấu, vừa tìm cách rút lui. 2 chiến sĩ an ninh vũ trang của tổ điệp báo có nhiệm vụ bảo vệ cho các cán bộ của tổ mỗi khi gặp khó khăn cũng như những lúc họ xâm nhập vào nội thành là Tân và Trung đã kiên cường chiến đấu và ngã xuống khi tuổi đời còn phơi phới sức xuân.
Thái Mỹ 
(còn nữa)